Khu di tích An ninh Khu V nằm trong quần thể Khu di tích lịch sử cách mạng Trung Trung Bộ - Nước Oa, thuộc thôn 6, xã Trà Tân, huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng . Khu di tích được xây dựng tôn tạo tại vị trí đóng quân của Tiểu đoàn 10 - An ninh vũ trang Ban An ninh Khu V trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Liên khu V, Khu V - khúc ruột miền Trung hình thành trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trải qua những đổi thay nhằm phù hợp với tình hình phát triển của sự nghiệp cách mạng, từ 1966 - 1975 Khu V gồm các tỉnh: Quảng Đà, Quảng Nam (chính quyền Sài Gòn gọi là Quảng Tín), Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Kon Tum, Gia Lai và Đắk Lắk.
Khu V có địa hình tương đối phức tạp, gồm đồng bằng ven biển, thành phố; vùng rừng núi và hơn 600km đường biên giới tiếp giáp Lào và Campuchia; đặc biệt về phía Tây các tỉnh Khu V có vùng núi rừng trùng điệp với cao nguyên rộng lớn, phì nhiêu về đất đai và tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản. Trên dải đất Khu V, cùng với người Kinh, có nhiều cộng đồng các dân tộc (Chăm, Xơ Đăng, Cơ Tu, Gia Rai, Ba Na, Ê Đê, Kơ Ho, Giê Triêng…) cùng sinh sống. Các dân tộc luôn đoàn kết, gắn bó, cần cù trong lao động sản xuất và trong đấu tranh chống thiên tại, địch họa.
Với những đặc điểm về tự nhiên và xã hội, đặc biệt là chiều dài bờ biển và vùng núi rừng Tây Nguyên hiểm trở, Khu V trở thành địa bàn cực kỳ quan trọng cả trong chiến tranh cũng như trong thời kỳ xây dựng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vùng núi rừng Khu V, đặc biệt là Tây Nguyên có vị trí chiến lược, ảnh hưởng không chỉ đối với miền Nam Việt Nam mà cả với phía Nam của Đông Dương. Cũng vì thế, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Khu V trở thành địa bàn Mỹ ngụy luôn huy động và tập trung lực lượng, phương tiện chiến tranh nhằm đàn áp, tiêu diệt phong trào cách mạng và ngăn chặn sự chi viện từ hậu phương miền Bắc. Địa bàn đồng bằng ven biển và các thành phố luôn là chiến trường đấu tranh quyết liệt giữa ta và địch; vùng rừng núi Tây Nguyên trở thành mặt trận mang tính quyết định “ai chiếm được Tây Nguyên thì sẽ là chủ của Đông Dương”…
Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quân và dân Khu V - Trung Trung Bộ luôn đoàn kết một lòng, vượt quan bao gian khổ, hy sinh; dưới ngọn cờ soi đường của Đảng; sự lãnh đạo, chỉ đạo của Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu V đã đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, chiến lược chiến tranh của Mỹ và chính quyền tay sai, từng bước làm chủ quê hương, góp phần giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Những thành tựu và chiến công của quân và dân Khu V trong kháng chiến chống Mỹ còn ghi dấu trên khắp các tỉnh, thành phố miền Trung Trung Bộ, đặc biệt là trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, mảnh đất “trung dũng kiên cường, đi đầu diệt Mỹ”, ngày nay trở thành những di tích lịch sử văn - hóa nổi tiếng, trong đó có Khu di tích lịch sử cách mạng Trung Trung Bộ - Nước Oa. Đây là căn cứ địa cách mạng của cơ quan Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu và các cơ quan ban ngành Khu V trong thời gian từ năm 1970 - 1973.
Từ đầu năm 1960, Liên khu ủy Khu V chọn khu vực huyện miền núi Trà My (phía Tây Nam tỉnh Quảng Nam) làm căn cứ địa để xây dựng, phát triển lực lượng chính trị và quân sự phục vụ cách mạng. Tháng 7/1961, sau khi Bộ Tư lệnh Quân khu V được thành lập, căn cứ cách mạng Khu ủy Khu V cũng là căn cứ Bộ Tư lệnh Quân khu. Lúc này cơ quan đóng quân tại Nước Là (nay thuộc huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam).
Nhằm đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo phong trào cách mạng Khu V, cơ quan Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân Khu V đã nhiều lần di chuyển địa điểm đóng quân. Từ năm 1970, cơ quan Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu V chuyển đến đồn trú tại khu vực Nước Oa, xã Trà Tân, huyện Trà My (nay là huyện Bắc Trà My). Căn cứ Nước Oa nằm dưới chân dãy núi Hòn Bà, phía trước là sông Trường và sông Nước Oa, xung quanh là các thung lũng lớn nhỏ, rừng già kín đáo, che chở bao bọc. Căn cứ Nước Oa là nơi vừa có thế công vừa có thế thủ lại thuận lợi cho việc trú ẩn, cất giấu vũ khí; làm bàn đạp tiến công, làm nơi ém quân và di chuyển vào Nam ra Bắc. Đặc biệt, địa bàn này có thể tiếp cận với đồng bằng, khai thác nguồn lương thực, thực phẩm, thuốc men tại chỗ đáp ứng yêu cầu của các lực lượng bám trụ tại căn cứ, kể cả trong trường hợp bị bao vây, phong tỏa...
Tại đây, Khu ủy Khu V đã tổ chức xây dựng các căn nhà làm trụ sở làm việc và là nơi ở của các cơ quan; thiết lập hệ thống hầm hào, công sự phòng ngự; một phần khu căn cứ được trồng cam, đào ao thả cá và trồng nhiều loại cây ăn quả để khắc phục đời sống khó khăn của chiến trường. Cán bộ, chiến sĩ Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu và các đơn vị trong thời gian tại đây luôn nhận được sự đùm bọc, che chở, giúp đỡ của bà con đồng bào các dân tộc trên địa bàn, nhờ đó đã góp phần khắc phục khó khăn và bảo vệ an toàn cho khu căn cứ cách mạng. Cùng với “đại bản doanh” Khu ủy và cơ quan chỉ huy Bộ Tư lệnh Quân khu tại căn cứ Nước Oa, Khu ủy cũng bố trí thiết lập căn cứ “vệ tinh” ở các xã giáp Trà Tân để đề phòng địch tấn công, có thể rút vào các căn cứ dự bị, đảm bảo bí mật và an toàn.
Tại căn cứ Nước Oa đã diễn ra nhiều sự kiện quan trọng. Là nơi Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu tổ chức các cuộc họp bàn và thống nhất chỉ đạo các chiến dịch quân sự trên khắp chiến trường Khu V, đặc biệt là những trận chiến đấu giai đoạn 1971 - 1972; đấu tranh chống địch càn quét, lấn chiếm năm 1973... Riêng tại địa bàn huyện Trà My, sau khi về đồn trú đóng quân, Khu uỷ và Bộ Tư lệnh Quân khu đã chỉ đạo Tiểu đoàn đặc công 409 cùng với Đảng bộ và nhân dân Trà My đánh chiếm đồn xã Đốc, giải phóng một khu vực rộng lớn vào ngày 27/3/1971. Đây cũng là nơi tổ chức các hội nghị, các lớp học tập, quán triệt các văn kiện của Trung ương và Khu ủy dành cho cán bộ các sư đoàn, trung đoàn, cán bộ các tỉnh trên toàn khu về dự...
Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, nhằm “đẩy mạnh hoạt động tấn công địch, chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam” theo theo tinh thần Nghị quyết 21 của Ban chấp hành Trung ương Đảng, từ giữa năm 1973, để đảm bảo an toàn và thuận lợi trong chỉ đạo cách mạng, căn cứ Khu ủy V và Bộ Tư lệnh Quân khu chuyển về xã Phước Trà, huyện Phước Sơn (nay thuộc xã Sông Trà, huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam). Đây là căn cứ của Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân Khu V trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1973 - 1975), trước khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng…
Nhằm bảo tồn và tôn vinh giá trị lịch sử, văn hóa của căn cứ cách mạng Khu ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu V thời kỳ 1970 - 1973, khu căn cứ Nước Oa được phục dựng, tôn tạo và ngày 04/8/1992 Khu di tích lịch sử cách mạng Trung Trung Bộ - Nước Oa được công nhận, xếp hạng Di tích lịch sử - văn hóa Quốc gia.
Từ sau khi được xếp hạng, Khu di tích lịch sử cách mạng Trung Trung Bộ - Nước Oa được xây dựng, tôn tạo nhiều di tích và hạng mục công trình, trong đó có Khu di tích An ninh Khu V.
Sau hiệp định Giơneve (7/1954), lực lượng Công an Liên khu V nhanh chóng chuyển hướng tổ chức và hoạt động, giải thể tổ chức, một bộ phận tập kết ra miền Bắc, một bộ phận ở lại chuyển sang các bộ phận “ Địch tình”, “ Bảo vệ căn cứ của Đảng, thực hiện 3 “cùng” với dân để xây dựng cơ sở nắm tình hình địch, tuyên truyền vận động quần chúng đấu tranh chống địch đàn áp, bảo vệ Đảng, bảo vệ cơ sở và giữ gìn lực lượng cách mạng.
Cách mạng càng phát triển, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ cách mạng đặt ra rất cấp bách, khẩn trương. Để đáp ứng yêu nhiệm vụ, nhất là nhiệm vụ bảo vệ lực lượng cách mạng, bảo vệ căn cứ, cơ quan Khu ủy… đầu năm 1962 Thường vụ Khu ủy V đã chỉ đạo thành lập Ban bảo vệ an ninh các cấp ở Khu V. Được sự chi viện của Bộ Công an kết hợp cùng lực lượng tại chỗ đã có kinh nghiệp đấu tranh trong kháng chiến chống Pháp và trong đồng khởi, Ban An ninh Khu V được thành lập với mật danh A.H230 (Hội nghị An ninh toàn miền Nam lần thứ nhất - tháng 01/1963 đã thống nhất tên gọi các tổ chức An ninh ở miền Nam là Ban An ninh - Ban bảo vệ an ninh Khu V được đổi tên thành Ban An ninh Khu V). Sau khi Ban An ninh Khu được thành lập, Ban An ninh các tỉnh, huyện cùng lần lượt được hình thành; đến năm 1965, hệ thống tổ chức các ban an ninh đã hình thành từ khu đến huyện, xã, có nơi đến các thôn…
Lúc đầu mới thành lập, quân số Ban An ninh Khu V còn rất mỏng. Về tổ chức, có ngoài bộ phận làm nhiệm vụ bảo vệ căn cứ có Văn phòng, Tổ cơ yếu, Tổ điện đài và một số cán bộ làm nhiệm vụ điều tra... Nhiệm vụ của Ban An ninh Khu được xác định là: Bảo vệ Đảng, lực lượng cách mạng, vùng giải phóng và khu căn cứ của cơ quan đầu não; điều tra nghiên cứu tình hình, trừng trị bọn tay sai; xây dựng từng bước lực lượng CAND; chuẩn bị mọi mặt cho công tác công an khi phong trào mở rộng và khi giành được chính quyền.
Ngay sau khi thành lập, Ban An ninh Khu V đã tham mưu Thường vụ Khu ủy chỉ đạo đấu tranh chống phản cách mạng và giúp Khu ủy chỉ đạo hướng dẫn an ninh các tỉnh triển khai các mặt công tác an ninh, xây dựng cơ sở nắm tình hình địch, đẩy mạnh công tác diệt ác phá kèm, chống địch càn quét gom dân lập ấp chiến lược. Hoạt động trên những địa bàn hết sức khó khăn phức tạp nhưng cán bộ, chiến sỹ anh ninh Khu vẫn kiên trì bám dân, bám buôn làng, phát động quần chúng “bảo mật phòng gian” nâng cao cảnh giác, tích cực đấu tranh chống địch càn quét, dồn dân lập ấp chiến lược; đồng thời triển khai lực lượng bí mật tấn công chính trị vào hàng ngũ địch; diệt trừ tình báo gián điệp, cảnh sát, phản động nguy hiểm; phá kế hoạch tình báo đại chúng, các cuộc hành quân càn quét của địch; bảo vệ Đảng, bảo vệ khu căn cứ, mở rộng vùng giải phóng.
Từ năm 1965, sau khi Mỹ đổ quân tham chiến ở miền Nam, chiến trường Khu V càng trở nên nóng bỏng, là địa bàn đấu tranh quyết liệt giữa cách mạng và các thế lực phản cách mạng. Lực lượng An ninh Khu V được Bộ Công an chi viện về mọi mặt đã kịp thời củng cố bộ máy an ninh Khu, phát triển các đội trinh sát vũ trang, nâng cao chất lượng hiệu quả công tác điệp báo, xây dựng cơ sở trong lòng địch, tham gia tích cực tham gia trận đâu đánh Mỹ, thắng Mỹ. An ninh Khu V chủ động và tích cực điều tra nắm tình hình, kịp thời bóc gỡ nhiều mạng lưới tình báo gián điệp, khám phá nhiều vụ nội gián… góp phần bảo vệ tuyệt đối an toàn các đồng chí lãnh đạo Khu ủy, Tỉnh ủy, các cơ quan đơn vị và quần chúng nhân dân ở vùng căn cứ.
Giai đoạn này, nhằm tăng cường công tác bảo vệ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, tháng 02/1965, Thường vụ Khu ủy quyết định thành Tiểu đoàn 10 - An ninh vũ trang Ban An ninh Khu V (còn gọi là Đơn vị 555 quân giải phóng miền Trung Trung Bộ). Tổ chức của Tiểu đoàn 10 có Ban chỉ huy, bộ phận tham mưu, chính trị hậu cần, trinh sát và thông tin; các đơn vị vũ trang chiến đấu của Tiểu đoàn có C32 làm nhiệm vụ bảo vệ tiếp cận lãnh đạo Khu uỷ, C33 bảo vệ vòng ngoài căn cứ và C34 làm nhiệm vụ bảo vệ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Trung Trung Bộ.
Đây là lực lượng nòng cốt, đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an toàn Khu ủy, các cơ quan tại vùng căn cứ cách mạng Trung Trung Bộ và các đồng chí lãnh đạo… trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Với những công hiến trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, năm 2009, Tiểu đoàn 10 - An ninh vũ trang Ban An ninh Khu V được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước…
Trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Ban An ninh Khu chỉ đạo An ninh các cấp tập trung bám sát địa bàn, nắm chắc tình hình địch và các đảng phái phản động; các đội trinh sát vũ trang lập danh sách các đối tượng phản cách mạng cần trấn áp; các tiểu ban điệp báo củng cố hệ thống giao liên đưa đón cán bộ vào nội thành, nội thị, vẽ sơ đồ những mục tiêu tấn công, chiếm lĩnh. Lực lượng An ninh đã tập trung ra phía trước làm nòng cốt trong công tác nắm tình hình, mở đường tiến công mạnh mẽ vào các mục tiêu đối tượng của an ninh; bảo vệ các đồng chí lãnh đạo Khu ủy, Tỉnh ủy và Bộ Chỉ huy chiến dịch, bảo vệ lược lượng vũ trang, các đoàn dân công… góp phần làm phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ.
Từ năm 1969, Mỹ tiến hành chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” ở Miền Nam, đồng thời mở rộng chiến tranh sang cả khu vực Đông Dương; là thời kỳ cách mạng Miền Nam và Khu V gặp rất nhiều khó khăn, tổ thất do địch phản kích, đàn áp. Lực lượng An ninh Khu V được các cấp ủy Đảng chỉ đạo chặt chẽ, Bộ Công an chi viện kịp thời đã kiên cường bám trụ chắp nối lại cơ sở, củng cố kiện toàn các Ban An ninh xã ấp; tuyên truyền vận động quần chúng đấu tranh chống địch càn quét bình định; đột nhập vào các ấp chiến lược, khu dồn để xây dựng cơ sở nắm tình bình địch; đánh diệt bọn cảnh sát, bình định, phượng hoàng, bám báo… từng bước khôi phục lại cơ sở. Đến năm 1971, ở nhiều nơi trong toàn Khu, với sự quyết tâm, nỗ lực của lực lượng AN ninh, tại nhiều địa bàn ta đã tạo được thế đứng chân, dần khôi phục phong trào cách mạng.
Trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972, An ninh Khu V đã tập trung lực lượng bảo vệ đồng bào ở vùng đồng bằng mở đường, vận chuyển vũ khí, lượng thực thuốc men phục vụ chiến dịch. Đồng thời đã phát triển thêm hàng trăm cơ sở và tham gia tấn công địch, trừng trị các đối tượng tình báo gián điệp, cảnh sát, bình định nông thôn...
Sau Hiệp định Paris được ký kết, Ban An ninh Khu đã phân công cán bộ và chỉ đạo an ninh các tỉnh tham gia bảo vệ và phục vụ việc kiểm soát, thi hành hiệp định; giám sát rút quân và trao trả người của các bên bị bắt, theo dõi và phát hiện tình báo gián điệp và các phần tử đầu hàng phản bội địch cài cắm âm mưu hoạt động. Lực lượng An ninh các tỉnh đã tích cực tham gia đấu tranh chống địch lấn chiếm; chống tình báo, gián điệp biệt kích; chiêu hồi chiêu hàng và hoạt động nội gián; đẩy mạnh các diệt ác phá kèm; phá kế hoạch bình định của địch; trừng trị những tên phản cách mạng nguy hiểm; vận động quần chúng nổi dậy phá thế kìm kẹp, giành quyền làm chủ, góp phần tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ cho cách mạng Khu V chuyển sang giai đoạn chuẩn bị tổng tiến công.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, thực hiện chủ trương của Khu uỷ, Ban An ninh Khu V đã tăng cường cán bộ và chỉ đạo An ninh các tỉnh phối hợp tiến công địch trên toàn chiến trường Nam Trung Bộ. Lực lượng An ninh Khu V đã chuẩn bị tốt về mọi mặt, tham gia tích cực trong trận đánh then chốt vào các thành phố, thị xã; hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nắm tình hình, tham gia tiến công chiếm lĩnh các mục tiêu do an ninh phụ trách, góp phần giải phóng các tỉnh Tây Nguyên. Trong chiến dịch Huế - Đà Nẵng, lực lượng An ninh Khu V đã tập trung lực lượng ra phía trước nắm tình hình địch, nhất là tình hình địch ở thành phố Đà Nẵng, phỗi hợp chặt chẽ với các lực lượng khác vận động quần chúng nổi dậy và tấn công chiếm lĩnh các mục tiêu thuộc cơ quan an ninh, cảnh sát của địch; truy kích các đối tượng chống phá, lẩn trốn, góp phần giải phóng các tỉnh miền Trung Trung Bộ.
Trải qua 13 năm hình thành và phát triển, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Công an và Khu uỷ Khu V; sự đùm bọc giúp đỡ của nhân dân, lực lượng An ninh Ban An ninh Khu V và tỉnh, thành phố Trung Trung Bộ đã không ngừng trưởng thành trong gian khổ hy sinh. Là lực lượng trực tiếp làm nhiệm vụ bảo vệ các cơ quan đầu não của Khu V; tham mưu, tổ chức và chỉ đạo công tác an ninh địa bàn miền Trung Trung Bộ, lực lượng An ninh Khu V luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, xứng đáng là chỗ dựa tin cậy, là công cụ chính yếu bảo vệ thành quả cách mạng của Đảng bộ và nhân dân các tỉnh Nam Trung Bộ góp phần cùng toàn Đảng, toàn quân và dân ta giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Trên chặng đường lịch sử ấy, đã có hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ hy sinh vì độc lập, tự do cho Tổ quốc, hoặc để lại một phần máu xương nơi chiến trường oanh liệt; chỉ riêng Tiểu đoàn 10 - An ninh vũ trang Ban An ninh Khu V đã có 67 đồng chí hy sinh, 215 đồng chí là thương binh, nhiều đồng chí là bệnh binh…
Những cống hiến của lực lượng An ninh Khu V được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận và trao tặng những phần thưởng xứng đáng; gần 100 tập thể và 76 cá nhân đã được phong tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.